Text Practice Mode
I.KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CẮCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1975
created Aug 30th 2021, 06:22 by ThuDng1
4
2069 words
5 completed
4
Rating visible after 3 or more votes
00:00
1.Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa
Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1954 đến năm 1975 là nền văn học của chế độ mới, vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đường lối văn nghệ của Đảng là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên một nền văn học thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, thống nhất về tổ chức và về quan niệm nhà văn kiểu mới: nhà văn - chiến sĩ.
Từ năm 1945 đến năm 1975, trên đất nước ta diễn ra nhiều sự kiện lớn lao: cuộc chiến trành giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, công cuộc xây dựng cuộc sống mới, con người mới ở miền Bắc,... Những sự kiện đó đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật. Điều kiện giao lưu văn hóa với nước ngoài không thuận lợi, chỉ giới hạn trong một số nước. Trong hoàn cành ấy, văn học giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 vẫn phát triển và đạt được những thành tựu to lớn.
2. Quá trình phát triển và những thành tự chủ yếu
a) Chặng đường từ năm 1945 đến năm 1954
Chủ đề bao trùm sáng tác văn học trong những ngày đầu đất nước giành được độc lập là ca ngợi Tổ quốc và quần chúng cách mạng, kêu gọi tinh thần đoàn kết toàn dân, cổ vũ phong trào Nam tiến, biểu dương những tấm gương vì ngước quên mình. HÌnh ảnh cả dân tộc đang trỗi dậy, niềm tự hào đến mức say mê trước "cuộc tái sinh màu nhiệm" (Hoài Thanh) của dân tộc biểu hiện trong nhiều tác phẩm: Dân khí miền Trung của Hoài Thanh, Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt của Tố Hữu, Ngọn quốc kì, Hội nghị non sông của Xuân Diệu, Tình sông núi của Trần Mai Ninh,...
Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đến vối cách mạng và kháng chiến, nhiều văn nghệ sĩ đã thể hiện lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Nhưng những ngày đầu, học chưa thể "rung đọng được cái rung động của quần chúng" (Nguyễn Đình Thi). Chính đường lối văn nghệ của Đảng với những chủ trương đúng đắn như "văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa", "cách mạng hóa tư tửng, quần chúng hóa sinh hoạt", đưa văn nghệ sĩ thâm nhập đời sống thực tế,... đã góp phần khơi nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn và tạo nên những thành tựu đặc sắc của văn nghệ kháng chiến.
Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến; hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân dân; thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.
Truyện ngắn và kí là nhũng thể loại mở đầu cho văn xuôi kháng chiến chống thực dân Pháp. Kí sự Một lần tớ Thủ đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng, truyện ngắn Đôi mắt và nhật kí Ở rừng của Nam Cao, truyện ngắn Làng của Kim Lân, Thư nhà của Hồ Phương,.. là những tác phẩm tiêu biểu.
Từ năm 1950, đã bắt đầu xuất hiện những tập truyện, kí khá dày dặn. Đáng chú ý là các tác phẩm được tặng giải thưởng truyện - kí của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1951 - 1952 : Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng và các tác phẩm được tặng giải Nhất trong giải thưởng truyện - kí năm 1954 - 1955 : Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
Thơ những năm kháng chiến chống Pháp đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Tình yêu quê hương, đất nước, lòng căm thù giặc, ca ngợi cuộc kháng chiến và con người kháng chiến là những cảm hứng chính. Hình ảnh quê hương và những con người khánh chiến, từ anh vệ quốc quân, bà mẹ chiến sĩ, chị phụ nữ nông thôn đến em bé liên lạc, được thể hiện chân thực gợi cảm. Một số nhà thơ có ý thức đổi mới thơ ca với những xu hướng khác nhau. Tố Hữu được xem là lá cờ đầu của nền thơ, đại diện cho xu hướng đại chúng hóa, hướng về dân tộc, khai thác những thể thơ truyền thống. Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Thi tiêu biểu cho hướng tìm tòi, cách tân thơ ca, đưa ra một kiểu thơ hướng nội, tự do, không vần hoặc rất ít vần. Còn thơ Quang Dũng lại tiêu biểu cho thơ hướng nội, tự do, không vần hoặc rất ít vần. Còn thơ Quang Dũng lại tiêu biểu cho hướng khai thác cảm hứng lãng mạn anh hùng. Những tác phẩm thơ xuất sắc của thơ kháng chiến là Cảnh khuya, Rằm tháng giêng (Nguyên tiêu) của Hồ Chí Minh, Đèo Cả của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, Nhớ của Hồng Nguyên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông, Đồng chí của Chính Hữu và đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu,...
Một số vở kịch ra đời phản ánh hiện thực cách mạng và kháng chiến. Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hòa của Học Phi là những vở được chú ý trong chặng đường này.
Lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học từ năm 1945 đến năm 1954 chưa phát triển nhưng đã có một số sự kiện và tác phẩm có ý nghĩa quan trọng. Bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam ( 1948) của Trường Chinh, Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc (1949) có ý nghĩa định hướng cho văn học nghệ thuật. Bài tiểu luận Nhận đường và tập Mấy vấn đề nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi, tập phê bình, tiểu luận Nói chuyện thơ ca kháng chiến và Quyền sống con người trong "Truyện Kiều" của Hoài Thanh, Giảng văn "Chinh phụ ngâm" của Đặng Thai Mai,... là những tác phẩm tiêu biểu.
b) Chặng đường từ năm 1955 đến năm 1964
Đây là chặng đường văn học trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Văn học tập trung thể hiện hình ảnh người lao động, ngợi ca những đổi thay của đất nước và con người trong bước đầu xây dựng xã hội với cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui và niềm lạc quan tin tưởng. Nhiều tác phẩm văn học đã thể hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, nói lên nỗi đau chia cắt và thể hiện ý chí thống nhất đất nước.
Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề và phạm vi của hiện thực đời sống. Nhiều tác phẩm viết về sự đổi đồi của con người, miêu tả sự biến đỏi số phận và tính cách nhân vật trong môi trường xã hội mới. Không ít tác phẩm đi theo hướng này đã thể hiện được khát vọng hạnh phúc của con người, có ý nghĩa nhân văn khá sâu sắc như Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương, Màu lạc của Nguyễn Khải, Anh Keng của Nguyễn Kiên,... Một số tác phẩm tập trung thai thác đề tài kháng chiến chống Pháp, không chỉ ngợi ca chủ nghĩa anh hùng, tinh thần bất khuất mà còn phản ánh được phần nào những hi sing gian khổ, những tổn thất và số phận con người trong chiến tranh như tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm,...
Ngoài ra còn có những truyện ngắn, tiểu thuyết về hiện thực đời sống trước Cách mạng với cái nhìn, khả năng phân tích và sức khái quát mới : Vợ nhặt của Kim Lân, Tranh tối tranh sáng của Nguyễn Công Hoan, Mười năm của Tô Hoài, Phất của Bùi Huy Phồn. Những bôn tiểu thuyết : Vỡ bờ (hai tập) của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển (bốn tập) của Nguyên hồng đã dựng lên được khá rõ bức tranh hoành tráng của lịch sử cách mạng Việt Nam, phản ánh hiện tượng đau thương và anh dũng của dân tộc thời kì Mặt trận Dân chủ đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều câu bút, Nhiều chuyến đi thực tế được tổ chức tạo điều kiện cho các nhà văn thâm nhập cuộc sống mới. Sông Đà của Nguyễn Tuân, Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Cái sân gạch của Đào Vũ,... bước đầu khẳng định thành tựu của văn xuôi viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc. Tuy nhiên, ở chặng đường này, vẫn còn nhiều tác phẩm thể hiện con người và cuộc sống một cách đơn giản, phẩm chất nghệ thuật còn non yêu.
Thơ từ năm 1955 đến năm 1964 phát triển mạnh mẽ. Sự hồi sinh của đất nước sau những năm tháng kháng chiến chống Pháp đầy hy sinh gian khổ, thành tựu sau những năm tháng kháng chiến chống Pháp đầy hi sinh gian khổ, thành tựu bước đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự hòa hợp giữa cái riêng với cái chung, nỗi đau chia cắt hai miền Nam - Bắc,... là những nguồn cảm hứng lớn của thơ ca. Nhiều tác phẩm thơ xuất sắc đã kết hợp hài hòa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn cách mạng. Thơ ca đã có một mùa gặt bội thu với các tập Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Đất nở hoa , Bài thơ cuộc dời của Huy Cận, Gửi miền Bắc, Tiếng sóng của Tế Hanh, Bài thơ Hắc Hải của Nguyễn Đình Thi, Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông,.. Nỗi đau chia cắt đất nước, Nỗi nhớ quê hương và khát vọng giải phóng miền Nam là nguồn cảm hứng của của nhiều bài thơ đặc sắc của Tố Hữu, Tế Hanh, Nguyễn Bính. Ngay trên tuyến đầu chống Mĩ, đã sớm xuất hiện những bài thơ hay, xúc động về miền Nam yêu thương và anh dũng như Mồ anh hoa nở của Thanh Hải và Quê hương của Giang Nam.
Kịch nói cũng có một số tác phẩm được dư luận chú ý như Một đảng viên của Học phi, Ngọn lửa của Nguyên Vũ, Quẫn của Lộng Chương, Chị Nhàn và Nổi gió của Đào Hồng Cẩm,...
Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1954 đến năm 1975 là nền văn học của chế độ mới, vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đường lối văn nghệ của Đảng là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên một nền văn học thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, thống nhất về tổ chức và về quan niệm nhà văn kiểu mới: nhà văn - chiến sĩ.
Từ năm 1945 đến năm 1975, trên đất nước ta diễn ra nhiều sự kiện lớn lao: cuộc chiến trành giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, công cuộc xây dựng cuộc sống mới, con người mới ở miền Bắc,... Những sự kiện đó đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật. Điều kiện giao lưu văn hóa với nước ngoài không thuận lợi, chỉ giới hạn trong một số nước. Trong hoàn cành ấy, văn học giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 vẫn phát triển và đạt được những thành tựu to lớn.
2. Quá trình phát triển và những thành tự chủ yếu
a) Chặng đường từ năm 1945 đến năm 1954
Chủ đề bao trùm sáng tác văn học trong những ngày đầu đất nước giành được độc lập là ca ngợi Tổ quốc và quần chúng cách mạng, kêu gọi tinh thần đoàn kết toàn dân, cổ vũ phong trào Nam tiến, biểu dương những tấm gương vì ngước quên mình. HÌnh ảnh cả dân tộc đang trỗi dậy, niềm tự hào đến mức say mê trước "cuộc tái sinh màu nhiệm" (Hoài Thanh) của dân tộc biểu hiện trong nhiều tác phẩm: Dân khí miền Trung của Hoài Thanh, Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt của Tố Hữu, Ngọn quốc kì, Hội nghị non sông của Xuân Diệu, Tình sông núi của Trần Mai Ninh,...
Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đến vối cách mạng và kháng chiến, nhiều văn nghệ sĩ đã thể hiện lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Nhưng những ngày đầu, học chưa thể "rung đọng được cái rung động của quần chúng" (Nguyễn Đình Thi). Chính đường lối văn nghệ của Đảng với những chủ trương đúng đắn như "văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa", "cách mạng hóa tư tửng, quần chúng hóa sinh hoạt", đưa văn nghệ sĩ thâm nhập đời sống thực tế,... đã góp phần khơi nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn và tạo nên những thành tựu đặc sắc của văn nghệ kháng chiến.
Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến; hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân dân; thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.
Truyện ngắn và kí là nhũng thể loại mở đầu cho văn xuôi kháng chiến chống thực dân Pháp. Kí sự Một lần tớ Thủ đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng, truyện ngắn Đôi mắt và nhật kí Ở rừng của Nam Cao, truyện ngắn Làng của Kim Lân, Thư nhà của Hồ Phương,.. là những tác phẩm tiêu biểu.
Từ năm 1950, đã bắt đầu xuất hiện những tập truyện, kí khá dày dặn. Đáng chú ý là các tác phẩm được tặng giải thưởng truyện - kí của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1951 - 1952 : Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng và các tác phẩm được tặng giải Nhất trong giải thưởng truyện - kí năm 1954 - 1955 : Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
Thơ những năm kháng chiến chống Pháp đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Tình yêu quê hương, đất nước, lòng căm thù giặc, ca ngợi cuộc kháng chiến và con người kháng chiến là những cảm hứng chính. Hình ảnh quê hương và những con người khánh chiến, từ anh vệ quốc quân, bà mẹ chiến sĩ, chị phụ nữ nông thôn đến em bé liên lạc, được thể hiện chân thực gợi cảm. Một số nhà thơ có ý thức đổi mới thơ ca với những xu hướng khác nhau. Tố Hữu được xem là lá cờ đầu của nền thơ, đại diện cho xu hướng đại chúng hóa, hướng về dân tộc, khai thác những thể thơ truyền thống. Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Thi tiêu biểu cho hướng tìm tòi, cách tân thơ ca, đưa ra một kiểu thơ hướng nội, tự do, không vần hoặc rất ít vần. Còn thơ Quang Dũng lại tiêu biểu cho thơ hướng nội, tự do, không vần hoặc rất ít vần. Còn thơ Quang Dũng lại tiêu biểu cho hướng khai thác cảm hứng lãng mạn anh hùng. Những tác phẩm thơ xuất sắc của thơ kháng chiến là Cảnh khuya, Rằm tháng giêng (Nguyên tiêu) của Hồ Chí Minh, Đèo Cả của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, Nhớ của Hồng Nguyên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông, Đồng chí của Chính Hữu và đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu,...
Một số vở kịch ra đời phản ánh hiện thực cách mạng và kháng chiến. Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hòa của Học Phi là những vở được chú ý trong chặng đường này.
Lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học từ năm 1945 đến năm 1954 chưa phát triển nhưng đã có một số sự kiện và tác phẩm có ý nghĩa quan trọng. Bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam ( 1948) của Trường Chinh, Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc (1949) có ý nghĩa định hướng cho văn học nghệ thuật. Bài tiểu luận Nhận đường và tập Mấy vấn đề nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi, tập phê bình, tiểu luận Nói chuyện thơ ca kháng chiến và Quyền sống con người trong "Truyện Kiều" của Hoài Thanh, Giảng văn "Chinh phụ ngâm" của Đặng Thai Mai,... là những tác phẩm tiêu biểu.
b) Chặng đường từ năm 1955 đến năm 1964
Đây là chặng đường văn học trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Văn học tập trung thể hiện hình ảnh người lao động, ngợi ca những đổi thay của đất nước và con người trong bước đầu xây dựng xã hội với cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui và niềm lạc quan tin tưởng. Nhiều tác phẩm văn học đã thể hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, nói lên nỗi đau chia cắt và thể hiện ý chí thống nhất đất nước.
Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề và phạm vi của hiện thực đời sống. Nhiều tác phẩm viết về sự đổi đồi của con người, miêu tả sự biến đỏi số phận và tính cách nhân vật trong môi trường xã hội mới. Không ít tác phẩm đi theo hướng này đã thể hiện được khát vọng hạnh phúc của con người, có ý nghĩa nhân văn khá sâu sắc như Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương, Màu lạc của Nguyễn Khải, Anh Keng của Nguyễn Kiên,... Một số tác phẩm tập trung thai thác đề tài kháng chiến chống Pháp, không chỉ ngợi ca chủ nghĩa anh hùng, tinh thần bất khuất mà còn phản ánh được phần nào những hi sing gian khổ, những tổn thất và số phận con người trong chiến tranh như tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm,...
Ngoài ra còn có những truyện ngắn, tiểu thuyết về hiện thực đời sống trước Cách mạng với cái nhìn, khả năng phân tích và sức khái quát mới : Vợ nhặt của Kim Lân, Tranh tối tranh sáng của Nguyễn Công Hoan, Mười năm của Tô Hoài, Phất của Bùi Huy Phồn. Những bôn tiểu thuyết : Vỡ bờ (hai tập) của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển (bốn tập) của Nguyên hồng đã dựng lên được khá rõ bức tranh hoành tráng của lịch sử cách mạng Việt Nam, phản ánh hiện tượng đau thương và anh dũng của dân tộc thời kì Mặt trận Dân chủ đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều câu bút, Nhiều chuyến đi thực tế được tổ chức tạo điều kiện cho các nhà văn thâm nhập cuộc sống mới. Sông Đà của Nguyễn Tuân, Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Cái sân gạch của Đào Vũ,... bước đầu khẳng định thành tựu của văn xuôi viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc. Tuy nhiên, ở chặng đường này, vẫn còn nhiều tác phẩm thể hiện con người và cuộc sống một cách đơn giản, phẩm chất nghệ thuật còn non yêu.
Thơ từ năm 1955 đến năm 1964 phát triển mạnh mẽ. Sự hồi sinh của đất nước sau những năm tháng kháng chiến chống Pháp đầy hy sinh gian khổ, thành tựu sau những năm tháng kháng chiến chống Pháp đầy hi sinh gian khổ, thành tựu bước đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự hòa hợp giữa cái riêng với cái chung, nỗi đau chia cắt hai miền Nam - Bắc,... là những nguồn cảm hứng lớn của thơ ca. Nhiều tác phẩm thơ xuất sắc đã kết hợp hài hòa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn cách mạng. Thơ ca đã có một mùa gặt bội thu với các tập Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Đất nở hoa , Bài thơ cuộc dời của Huy Cận, Gửi miền Bắc, Tiếng sóng của Tế Hanh, Bài thơ Hắc Hải của Nguyễn Đình Thi, Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông,.. Nỗi đau chia cắt đất nước, Nỗi nhớ quê hương và khát vọng giải phóng miền Nam là nguồn cảm hứng của của nhiều bài thơ đặc sắc của Tố Hữu, Tế Hanh, Nguyễn Bính. Ngay trên tuyến đầu chống Mĩ, đã sớm xuất hiện những bài thơ hay, xúc động về miền Nam yêu thương và anh dũng như Mồ anh hoa nở của Thanh Hải và Quê hương của Giang Nam.
Kịch nói cũng có một số tác phẩm được dư luận chú ý như Một đảng viên của Học phi, Ngọn lửa của Nguyên Vũ, Quẫn của Lộng Chương, Chị Nhàn và Nổi gió của Đào Hồng Cẩm,...
saving score / loading statistics ...