eng
competition

Text Practice Mode

Thơ, văn xuôi và những kết hợp nghệ thuật

created Mar 22nd 2021, 04:33 by NguynKhcQui


0


Rating

2047 words
1 completed
00:00
Trong quan niệm mang tính "cổ điển" của luận văn học Nga - viết, một tác phẩm văn học bất nào đó không nằm ngoài cái khung ba phương thức - thể loại: trữ tình, tự sự kịch. Đại để, tác phẩm văn học, nếu không thơ thì sẽ văn xuôi (văn xuôi nghệ thuật - để phân biệt với văn xuôi chính luận các dạng văn xuôi khác ta không thể đưa vào trong cùng khái niệm "văn học") hoặc kịch. Cái nhìn phân xuất của luận như vậy, nhưng trên thực tế, đã, đang sẽ tiếp tục hình thành những tác phẩm ta không thể nói xác quyết rằng chúng đại diện "trong suốt" của bất cứ thể loại nào. Sự kết hợp, trộn lẫn, xuyên thấm giữa những yếu tố hình thức "cái nhìn bên trong" của các thể loại khác nhau trong cùng một tác phẩm, những mức độ đậm nhạt nhất định, đã cho ra đời những sản phẩm "là nó, nhưng đồng thời không chỉ nó" khá đặc sắc. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ xin được bàn qua về thơ, văn xuôi - nói cụ thể "truyện" - những kết hợp nghệ thuật giữa chúng.
 
 
1. Truyện Kiều thơ hay truyện? Thì, chính cái tên đã được dân gian hóa phổ thông hóa của kiệt tác Đoạn trường tân thanh đã nói lên bản chất thể loại của nó: đây một tác phẩm tự sự, một "truyện", được triển khai dưới hình thức thơ (lục bát). Nhìn rộng ra, tất cả các tác phẩm của văn học Việt Nam trung đại giới nghiên cứu từ lâu đã thống nhất định danh "truyện Nôm" cũng đều như vậy: một "truyện" được "kể" bằng thơ lục bát hoặc song thất lục bát hoặc thơ Nôm Đường luật liên hoàn. Trên phương diện nào đó, sự kết hợp này vừa một nỗ lực vừa cho thấy cái giới hạn không thể vượt qua của văn học Việt Nam trung đại trong việc xây dựng nền văn xuôi nghệ thuật bằng chữ Nôm (chúng ta không nên quên rằng tất cả các tác phẩm văn xuôi nghệ thuật thời trung đại của ta, từ Thánh Tông di thảo đến Truyền mạn lục hay Hoàng nhất thống chí... đều tác phẩm chữ Hán). Nhưng cũng chính cái việc mượn hình thức thơ để triển khai nội dung "truyện" lại đem tới cho truyện Nôm nhiều đặc tính nghệ thuật mới, không dễ nếu tác phẩm chỉ văn xuôi thuần túy. Điều này thể thấy rất qua thao tác so sánh giữa Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du. Nhiều người cho rằng Đoạn trường tân thanh hay hơn, giá trị hơn Kim Vân Kiều truyện, họ giải điều đó bằng tài năng bậc thầy của Nguyễn Du; nhưng thực ra, nói chính xác thì Đoạn trường tân thanh khác Kim Vân Kiều truyện, để làm nên cái khác này, như nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã phân tích khá cặn kẽ thú vị trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, ngoài tài năng của Nguyễn Du còn sự quy định của chính cái hình thức thơ lục bát Nguyễn Du đã sử dụng để chuyển tải một nội dung "truyện" vay mượn từ Thanh Tâm Tài Nhân.
Dùng thơ để "kể chuyện", hay "kể chuyện" bằng thơ, còn xu hướng được kéo dài trong văn học Việt Nam tới tận thời hiện đại. Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính, Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Núi Đôi của Cao, Gửi em thanh niên xung phong của Phạm Tiến Duật... những tác phẩm như vậy. Chúng ta hoàn toàn thể “diễn nôm” chúng dưới dạng những câu chuyện (đây những dụ khá tốt để thấy cái duy kể chuyện đã ăn sâu đến thế nào trong căn tính thơ Việt). nhiên, cốt truyện của "truyện" trong những tác phẩm này đã đơn giản hơn rất nhiều so với truyện Nôm trước kia. Mặt khác, trọng tâm của tác phẩm sự bộc lộ cái tôi cảm xúc, cái tôi suy nghĩ, cái tôi đánh giá của chính tác giả về câu chuyện được kể chứ không phải bản thân việc kể chuyện. Bằng những đặc điểm như vậy, những tác phẩm này thuộc phương thức trữ tình (bài thơ), chứ không phải những tác phẩm tự sự (truyện) khoác lớp áo trữ tình.
 
 
 
3. Sự kết hợp, trộn lẫn, xuyên thấm lẫn nhau giữa thơ văn xuôi thực ra không chỉ dừng lại những hình thức "kể chuyện bằng thơ" hay "đưa thơ vào truyện" như đã trình bày lược trên. Nằm bề sâu hơn, còn sự hoán đổi "cái nhìn bên trong" của các thể loại. Đây điều, trong một số trường hợp, quan hệ mật thiết với quán tính sáng tạo của tác giả. Vào "một ngày đẹp trời" nào đó, một người trước nay chuyên làm thơ bỗng quay ra viết truyện - hoặc một người vốn chỉ viết truyện bỗng chuyển sang làm thơ - vậy là, giống như những di dân khi phải rời bỏ miền quê của mình để chuyển qua sinh sống một vùng đất mới, anh ta vứt đi một số thứ rườm bất tiện, nhưng vẫn giữ lại cho mình những đã trở thành vật bất li thân. Vật bất li thân ấy, với người sáng tác, đó chính "cái nhìn bên trong" của thể loại anh ta vốn đã quen thuộc, anh ta sẽ sử dụng để nhào nặn lại cái thể loại anh ta đang muốn tiếp cận. Nói cho cụ thể, anh ta sẽ viết truyện theo cách làm một bài thơ, ngược lại, làm thơ theo cách viết một tác phẩm truyện. Chúng ta thể quan sát thấy tương đối về hiện tượng này qua hai dụ, tôi tạm lấy, cách nay chừng hơn mười năm: tiểu thuyết Chân dung cát của nhà thơ Inrasara (2006) tập thơ Gửi VB của nhà văn Phan Thị Vàng Anh (2007).
Inrasara đã viết tiểu thuyết Chân dung cát theo cách của một bài thơ. Để chứng minh điều này, cần phải trở lại với câu hỏi: Thơ gì? "Thi ca hiện tại" - Octavio Paz từng nói vậy, tôi chia sẻ với sự diễn giải về định đề này của Ngô Tự Lập: "Thi ca khoảnh khắc ngừng lại của thời gian". Đọc Chân dung cát, thấy quả đúng sự ngừng lại của thời gian. Trong tác phẩm, mối bận tâm của người viết không đặt vào việc kể lại một biến cố (hay một sự kiện hoặc một hành động) trung tâm, để từ đó, các nhân vật hiện ra, quan hệ tác động lẫn nhau theo một quá trình nhất định nào đó nằm trong chủ đích của tác giả (hoặc trong logic nội tại giữa chúng). Nói cách khác, Chân dung cát tiểu thuyết không thể kể lại được. Nguyên nhân sự triệt tiêu thời gian: không thời gian làm yếu tố nối kết, sẽ không biến cố (hay sự kiện, hành động) như một quá trình, như vậy thì không thể kể lại tác phẩm theo kiểu "tóm tắt cốt truyện". Chân dung cát một tập hợp các chân dung Chăm, mỗi chân dung Chăm làm nổi bật một nét tính cách Chăm, gom lại, cả cuốn tiểu thuyết đã làm hiện diện mạo lập thể của tinh thần Chăm trong đời sống cộng đồng Việt Nam hôm nay. Không phải các nhân vật trong tác phẩm của Inrasara không quan hệ tác động với nhau, song chúng không quan hệ trong một biến cố trung tâm, thế từng nhân vật vẫn tách rời nhau như những ngọn sơn, ấn tượng phi thời gian càng trở nên nét. thể nói, yếu tố duy nhất nối kết các nhân vật củaChân dung cát trong một chỉnh thể, ấy một trạng thái - "một trạng thái", đó chẳng phải cái ấn tượng thẩm bản thơ tạo nên cho người đọc hay sao? - của tác giả: niềm cảm thông, nỗi ngậm ngùi trước gánh nặng buồn thương định mệnh của con người. Cấu trúc thơ lặn vào bên trong cấu trúc tiểu thuyết, thể gọi tên kiểu kết hợp thơ - văn xuôi trong tiểu thuyết Chân dung cát như vậy.
Trong tập thơ Gửi VB của Phan Thị Vàng Anh, hầu hết các bài đều được triển khai theo một cấu trúc: phần đầu - tác giả liệt liên tiếp các sự vật, hành động; đó sự chuẩn bị cho phần sau - trọng tâm ngữ nghĩa. dụ bài Đã đến Huyền Mi. Bình an. Sau khi liệt một loạt hoạt động: đã bỏ vali vào tủ, đã xin lễ tân phích nước, đã mở tung cửa tắt đèn cởi áo nhìn xuống đường... thì mới đến phần kết đầy sức nặng: giờ nằm im ngửa cổ/ cho đầu thõng xuống cạnh giường/ để phòng nước mắt chảy/ chầm chậm ngược dòng tuôn. thể nói, tập thơ này, chìa khóa để mở ra thông điệp của bài thơ nằm những câu kết, sự bất ngờ dành cho người đọc cũng nằm những câu kết. Chính sự xuất hiện của câu kết - trong tương quan với phần còn lại của bài thơ - đã tạo ra cho người đọc điều đó giống như sự đoản mạch cảm xúc: đột ngột lóe sáng, người ta buộc phải nhìn lại toàn bộ văn bản bằng ánh sáng của cái chớp lóe đột ngột ấy. Dễ thấy dấu vết của một nhà văn cái thao tác này, bởi lẽ, kiểu cấu trúc tác phẩm như đã nói vừa rồi kiểu cấu trúc rất phổ biến truyện ngắn, đặc biệt truyện ngắn cổ điển (nhưng thú vị chỗ, khi viết truyện ngắn, tập Khi người ta trẻ, Vàng Anh lại tỏ ra không mấy quan tâm đến kiểu cấu trúc này). Mặt khác, ngoài vấn đề cấu trúc, "cái nhìn văn xuôi" trong Gửi VB cũng rất đậm đặc. thể hiện sự mẫn cảm của tác giả với những con số chính xác, bộc lộ cách tác giả quan sát phát hiện các đối tượng trong chính những hình thức cụ thể, vốn của chúng, không bỏ qua ngay cả những chi tiết vẻ "rườm rà". Quán tính của một xuất phát điểm văn xuôi chăng?
 
4. Sự kết hợp trên nhiều phương diện giữa thơ văn xuôi (truyện) trong cùng một tác phẩm tiềm tàng khả năng mang lại sự đa dạng về sắc thái thẩm cho tác phẩm. Tất nhiên, sự đa dạng ấy thực một giá trị hay không giá trị đến đâu thì còn phụ thuộc vào năng lực của chính người viết. Thêm nữa, để kết lại bài viết này, tôi nghĩ lẽ cũng cần phải nêu ra đây một trường hợp dị biệt (nhưng mang tính phổ biến khá cao): những tác phẩm khi đọc xong ta vẫn băn khoăn không thơ hay văn xuôi. Không phải tác giả đã "cao tay ấn" trong việc làm mờ nhoè ranh giới giữa các thể loại tạo ra một cái đó độc đáo. Mà, đơn giản thì đó loại sản phẩm văn chương "thơ không tới, văn xuôi cũng chẳng xong"!
 
 

saving score / loading statistics ...