Text Practice Mode
Hải chiến Trafalgar
created Oct 24th 2019, 09:42 by maiquang98
0
1161 words
5 completed
5
Rating visible after 3 or more votes
00:00
Vào ngày 21 tháng 10 năm 1805 đã diễn ra trận chiến manh tính quyết định giữa Hải quân Hoàng gia Anh và lực lượng liên quân Pháp - Tây Ban Nha. Trận chiến này là chiến thắng quan trọng nhất của Đế quốc Anh trong những cuộc chiến tranh chống Napoléon, chiến thắng lẫy lừng tại nơi đây đã mở ra thời kỳ bá quyền của nước Anh trên biển cả và mở ra thời kỳ hoàng kim cho nước Anh sau này.
Năm 1805 nước Pháp dưới thời trị vì của Napoleon Bonaparte đang ở trên đỉnh cao quyền lực thống trị châu Âu lục địa, tuy nhiên khi đó hải quân Hoàng Gia vẫn là lực lượng nắm quyền kiểm soát đại dương. Để có thể thực hiện tham vọng của mình Napoleon đã cho xây dựng một hạm đội hùng mạnh để chuẩn bị cho công cuộc xâm lược nước Anh, tuy nhiên đi vòng qua eo biển Celtic hay eo biển Manche lại là một điều quá nguy hiểm. Hải quân Pháp đã cùng với hải quân Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của đô đốc Pierre-Charles Villeneuve đã đề ra kế hoạch về một cuộc tấn công từ Trafalgar- một địa điểm thuộc bờ biển phía tây nam của Tây Ban Nha.
Nhận thức được cuộc tấn công của Pháp sẽ làm phá hủy ngành kinh tế hành hải cũng như thương mại toàn cầu của Anh Quốc, vì thế bằng một cuộc tấn công chặn đứng âm mưu của Pháp sẽ là chìa khóa cứu sống nước Anh trong trận chiến. Kế hoạch cho một trận chiến quyết định đã được Nelson đưa ra trên sa bàn chiến lược của kỵ hạm HMS Victory. Đến cuối tháng 9 cùng năm ông và hạm đội của mình đã xuất hiện ở ngoài khơi Cadiz, sự xuất hiện của Nelson đã làm cho đô đốc Villeneuve đừng ngồi không yên. Tuy nhiên Villeneuve buộc phải nhìn nhận rằng hạm đội của ông mạnh hơn Nelson với 33 tàu so với 27 tàu chiến tuyến của Anh. Xét trên phương diện chiến thuật, hạm đội Anh ở trong thế chủ động tấn công, tuy nhiên đây lại là một lợi thế rất mỏng manh khi họ sẽ phải chịu tổn thương lớn khi đến gần hạm đội Pháp-vốn đang giữ thế phòng thủ. Người Pháp có thể tập trung toàn bộ hỏa lực để vô hiệu hóa tàu chiến của Anh khi họ tiến lại gần mà người Anh lại gần như không thể bắn trả( hơn phân nửa số đạn pháo của liên quân là đạn xích dùng để khá cột buồm). Trong khi đó thất bại trong cuộc tấn công sẽ là dấu chấm hết cho uy quyền của hải quân Hoàng Gia trên biển cũng như nước Anh sẽ phải đối mặt với mối đe dọa trực tiếp đến từ lục địa.
Nelson cho hạm đội của mình tách ra làm 2 hạm đội nhỏ tiến theo một đường thẳng. Ông chỉ huy kỳ hạm Victory cùng 15 tàu chiến ở cánh trái sẽ tấn công vào thẳng trung tâm của liên quân và chặn đường rút lui của quân địch từ phía sau. Đô đốc Collingwood sẽ dẫn theo 13 tàu chiến tuyến và tấn công mạn phải của liên quân. Với chiến thuật này, ông sẽ buộc hạm đội địch phải chia nhỏ và không thể hỗ trợ được hỏa lực cho nhau, khi đó ta có thể tiêu diệt từng tàu một một cách đơn giản. Chiến thuật này đã từng được áp dụng và giúp người Anh chiến thắng trong trận Camperdown và trận Vịnh St Vincent năm 1797. Đô đốc Nelson cho treo cờ hiệu tạo thành thông điệp lịch sử gửi đến toàn hạm đội: “England expects that every man will do his duty.”
Vào trưa ngày 21 tháng 10 năm 1805, đô đốc Villeneuve phát lệnh tấn công. Bốn tàu chiến tuyền của Pháp đều hướng tất cả pháo mạn trút cơn mưa đạn pháo vào chiếc HMS Royal Sovereign lúc này đang dẫn đầu hạm đội, Victory cũng phải đối mặt với 4 tàu chiến và chịu thiệt hại nặng trong hơn 40 phút đầu tiên của trận chiến. Tuy nhiên sau khi toàn hạm đội vào gần hạm đội liên quân, đô đốc Nelson đã đưa Victory áp sát kỳ hạm của đô đốc Villeneuve (Bucentaure)và biến con tàu này thành đống gỗ vụn. Hạm đội Pháp-Tây Ban Nha nhanh chóng trở nên hỗn loạn vì mất đi tàu chỉ huy tạo điểu kiện cho các tàu Anh áp sát và tiêu diệt từng tàu chiến một. Victory đối mặt với 3 tàu chiến khác với hỏa lực áp đảo của đại bác và các tay súng bắn tỉa, một thủy thủ Pháp đã nhìn thấy chiếc áo có nhiều huân chương lấp lánh và bắn một phát súng xuyên ngực đô đốc Nelson. Vị đô đốc tài ba ngã gục tại chỗ và được các sĩ quan đưa vào kho quân lương để chữa trị.
Sau hơn 5 giờ chiến đấu ác liệt, người Anh đã có một chiến thắng hủy diệt với hạm đội quân thù khi họ đã bắt giữ và đánh chìm được 21 tàu chiến (11 tàu chiến lợi phẩm), liên quân bị thiệt hại nặng với Pháp là 2.218 chết, 1,155 bị thương và 4.000 bị bắt, còn TBN là 1.025 chết, 1.333 bị thương và 4.000 bị bắt. Trong khi đó người Anh không mất tàu chiến nào, họ tổn thất 1.666 người với 458 chết và 1.208 bị thương, trong đó có đô đốc Nelson tài ba.
Sau chiến thắng lẫy lừng ở Trafalgar, nước Anh vẫn giữ được bá quyền thống trị đại dương ở Châu Âu, đồng thời đập tan âm mưu cô lập nước Anh bằng hải quân và xâm lược đảo Anh của Napoleon. Sau trận chiến vị Hoàng đế Pháp sẽ không bao giờ để các tàu chiến của mình rời khỏi cảng, nền kinh tế của Pháp trở nên kiệt quệ, liên minh với Tây Ban Nha bị phá vỡ khiến cho quan hệ Pháp- Tây Ban Nha dần đi vào ngõ cụt. Đô đốc Villeneuve sau khi thất trận đã bị bãi chức và sống lưu vong tại ngoại ô Pari và mất sau đó 1 năm, ở Tây Ban Nha đô đốc Federico Gravina cũng mất năm 1806 do những vết thương nặng từ trận chiến. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1806, tang lễ của đô đốc Nelson được cử hành tại London theo nghi thức quốc tang, sau đó ông được an táng trong nhà thờ Thánh Paul. Một bức tượng được dựng lên để tưởng nhớ ông tại Quảng trường Trafalgar, và nhiều con phố và chiến hạm của Anh sau này đã được vinh hạnh mang tên ông và chiến thắng Trafalgar bất hủ.
Năm 1805 nước Pháp dưới thời trị vì của Napoleon Bonaparte đang ở trên đỉnh cao quyền lực thống trị châu Âu lục địa, tuy nhiên khi đó hải quân Hoàng Gia vẫn là lực lượng nắm quyền kiểm soát đại dương. Để có thể thực hiện tham vọng của mình Napoleon đã cho xây dựng một hạm đội hùng mạnh để chuẩn bị cho công cuộc xâm lược nước Anh, tuy nhiên đi vòng qua eo biển Celtic hay eo biển Manche lại là một điều quá nguy hiểm. Hải quân Pháp đã cùng với hải quân Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của đô đốc Pierre-Charles Villeneuve đã đề ra kế hoạch về một cuộc tấn công từ Trafalgar- một địa điểm thuộc bờ biển phía tây nam của Tây Ban Nha.
Nhận thức được cuộc tấn công của Pháp sẽ làm phá hủy ngành kinh tế hành hải cũng như thương mại toàn cầu của Anh Quốc, vì thế bằng một cuộc tấn công chặn đứng âm mưu của Pháp sẽ là chìa khóa cứu sống nước Anh trong trận chiến. Kế hoạch cho một trận chiến quyết định đã được Nelson đưa ra trên sa bàn chiến lược của kỵ hạm HMS Victory. Đến cuối tháng 9 cùng năm ông và hạm đội của mình đã xuất hiện ở ngoài khơi Cadiz, sự xuất hiện của Nelson đã làm cho đô đốc Villeneuve đừng ngồi không yên. Tuy nhiên Villeneuve buộc phải nhìn nhận rằng hạm đội của ông mạnh hơn Nelson với 33 tàu so với 27 tàu chiến tuyến của Anh. Xét trên phương diện chiến thuật, hạm đội Anh ở trong thế chủ động tấn công, tuy nhiên đây lại là một lợi thế rất mỏng manh khi họ sẽ phải chịu tổn thương lớn khi đến gần hạm đội Pháp-vốn đang giữ thế phòng thủ. Người Pháp có thể tập trung toàn bộ hỏa lực để vô hiệu hóa tàu chiến của Anh khi họ tiến lại gần mà người Anh lại gần như không thể bắn trả( hơn phân nửa số đạn pháo của liên quân là đạn xích dùng để khá cột buồm). Trong khi đó thất bại trong cuộc tấn công sẽ là dấu chấm hết cho uy quyền của hải quân Hoàng Gia trên biển cũng như nước Anh sẽ phải đối mặt với mối đe dọa trực tiếp đến từ lục địa.
Nelson cho hạm đội của mình tách ra làm 2 hạm đội nhỏ tiến theo một đường thẳng. Ông chỉ huy kỳ hạm Victory cùng 15 tàu chiến ở cánh trái sẽ tấn công vào thẳng trung tâm của liên quân và chặn đường rút lui của quân địch từ phía sau. Đô đốc Collingwood sẽ dẫn theo 13 tàu chiến tuyến và tấn công mạn phải của liên quân. Với chiến thuật này, ông sẽ buộc hạm đội địch phải chia nhỏ và không thể hỗ trợ được hỏa lực cho nhau, khi đó ta có thể tiêu diệt từng tàu một một cách đơn giản. Chiến thuật này đã từng được áp dụng và giúp người Anh chiến thắng trong trận Camperdown và trận Vịnh St Vincent năm 1797. Đô đốc Nelson cho treo cờ hiệu tạo thành thông điệp lịch sử gửi đến toàn hạm đội: “England expects that every man will do his duty.”
Vào trưa ngày 21 tháng 10 năm 1805, đô đốc Villeneuve phát lệnh tấn công. Bốn tàu chiến tuyền của Pháp đều hướng tất cả pháo mạn trút cơn mưa đạn pháo vào chiếc HMS Royal Sovereign lúc này đang dẫn đầu hạm đội, Victory cũng phải đối mặt với 4 tàu chiến và chịu thiệt hại nặng trong hơn 40 phút đầu tiên của trận chiến. Tuy nhiên sau khi toàn hạm đội vào gần hạm đội liên quân, đô đốc Nelson đã đưa Victory áp sát kỳ hạm của đô đốc Villeneuve (Bucentaure)và biến con tàu này thành đống gỗ vụn. Hạm đội Pháp-Tây Ban Nha nhanh chóng trở nên hỗn loạn vì mất đi tàu chỉ huy tạo điểu kiện cho các tàu Anh áp sát và tiêu diệt từng tàu chiến một. Victory đối mặt với 3 tàu chiến khác với hỏa lực áp đảo của đại bác và các tay súng bắn tỉa, một thủy thủ Pháp đã nhìn thấy chiếc áo có nhiều huân chương lấp lánh và bắn một phát súng xuyên ngực đô đốc Nelson. Vị đô đốc tài ba ngã gục tại chỗ và được các sĩ quan đưa vào kho quân lương để chữa trị.
Sau hơn 5 giờ chiến đấu ác liệt, người Anh đã có một chiến thắng hủy diệt với hạm đội quân thù khi họ đã bắt giữ và đánh chìm được 21 tàu chiến (11 tàu chiến lợi phẩm), liên quân bị thiệt hại nặng với Pháp là 2.218 chết, 1,155 bị thương và 4.000 bị bắt, còn TBN là 1.025 chết, 1.333 bị thương và 4.000 bị bắt. Trong khi đó người Anh không mất tàu chiến nào, họ tổn thất 1.666 người với 458 chết và 1.208 bị thương, trong đó có đô đốc Nelson tài ba.
Sau chiến thắng lẫy lừng ở Trafalgar, nước Anh vẫn giữ được bá quyền thống trị đại dương ở Châu Âu, đồng thời đập tan âm mưu cô lập nước Anh bằng hải quân và xâm lược đảo Anh của Napoleon. Sau trận chiến vị Hoàng đế Pháp sẽ không bao giờ để các tàu chiến của mình rời khỏi cảng, nền kinh tế của Pháp trở nên kiệt quệ, liên minh với Tây Ban Nha bị phá vỡ khiến cho quan hệ Pháp- Tây Ban Nha dần đi vào ngõ cụt. Đô đốc Villeneuve sau khi thất trận đã bị bãi chức và sống lưu vong tại ngoại ô Pari và mất sau đó 1 năm, ở Tây Ban Nha đô đốc Federico Gravina cũng mất năm 1806 do những vết thương nặng từ trận chiến. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1806, tang lễ của đô đốc Nelson được cử hành tại London theo nghi thức quốc tang, sau đó ông được an táng trong nhà thờ Thánh Paul. Một bức tượng được dựng lên để tưởng nhớ ông tại Quảng trường Trafalgar, và nhiều con phố và chiến hạm của Anh sau này đã được vinh hạnh mang tên ông và chiến thắng Trafalgar bất hủ.
saving score / loading statistics ...