eng
competition

Text Practice Mode

Hàn Phi Tử

created Sep 6th 2018, 13:48 by VMinhPhng1575876


1


Rating

2242 words
14 completed
00:00
Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn (được gọi "công tử"), thích cái học "hình danh." Gốc của học thuyết này Hoàng Đế, Lão Tử. Hàn Phi tật nói ngọng, không thể biện luận nhưng giỏi viết sách.
 
Hàn Phi đều học với Tuân Khanh (còn gọi Tuân Tử). tự cho mình kém Hàn Phi. Hàn Phi thấy nước Hàn bị suy yếu, mấy lần viết thư dâng lên hiến kế cho vua Hàn, nhưng vua Hàn không dùng.
 
Hàn Phi ghét những người trị nước không trau dồi làm cho pháp chế sáng muốn dùng cái thế của mình để chế ngự bầy tôi; không lo việc làm cho nước giàu, binh mạnh bằng cách tìm người xứng đáng, dùng người hiền trái lại dùng những bọn tham nhũng, dâm loạn, sâu mọt, đặt chúng địa vị cao hơn những người công lao thực tài. Hàn Phi cho rằng nhà Nho dùng lời văn làm rối loạn luật pháp, bọn du hiệp dùng lực phạm đến điều ngăn cấm, gặp lúc yên ổn thì nhà vua dùng bọn hám danh, gặp lúc nguy cấp thì lại dùng kẻ mang giáp trụ.
 
Như thế thành ra ngày nay người nhà vua nuôi lại không phải những người nhà vua cần dùng, những người nhà vua cần dùng đều lại không phải những người nhà vua nuôi. Hàn Phi thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi gian dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa nên viết Phẫn (sự phẫn nộ của con người độc), Ngũ Đố (năm thứ sâu mọt). Nội Ngoại Trữ Thuyết (sưu tập những lời bàn về việc trong việc ngoài), Thuyết Lâm (chuyện xưa), Thuyết Nan (cái khó trong việc du thuyết),... tất cả hơn mười vạn chữ.
 
người đem sách của Hàn Phi đến nước Tần. Tần vương Chính đọc quyển phẫn Ngũ đố (theo Thiên; Nguyễn Hiến ghi đó bộ Hàn Phi tử), rất thích. Được cho biết Hàn Phi tác giả sách, vua Tần liền vội vàng đánh Hàn. Lúc đầu vua Hàn không dùng Hàn Phi, đến khi nguy cấp bèn sai Hàn Phi đi sứ sang Tần.
 
Vua Tần gặp được Hàn Phi mừng rỡ nhưng chưa tin dùng.
 
Hàn Phi đi sứ qua Tần với mục đích cứu Hàn. Ông viết bài Tồn Hàn cho vua Tần, cố hết sức thuyết phục vua Tần đừng đánh Hàn. Diêu Giả ganh ghét Hàn Phi, gièm Hàn Phi, nói với Tần vương Chính:
 
Hàn Phi công tử nước Hàn. Nay nhà vua muốn thôn tính tất cả nước chư hầu, nhưng Phi thì rốt cuộc chỉ lo cho Hàn chứ không lo cho Tần, thường tình con người ta vẫn thế. Nay nhà vua không dùng, giữ lại đây lâu rồi cho về, thế gây cho mình một mối lo. Không bằng lấy cớ làm trái pháp luật giết đi.
Vua Tần cho phải, giao cho quan lại trị tội Hàn Phi. sai người đưa thuốc độc để cho Hàn Phi tự sát. Hàn Phi muốn bày tỏ trước mặt nhà vua, nhưng không được nhà vua tiếp. Sau đó nhà vua hối tiếc sai người tha thì Hàn Phi đã chết rồi.
 
Cũng thuyết cho trong lúc bị giam, Hàn Phi bèn viết bài kiến Tần dâng vua, mong dùng cái tài văn chương để thoát khỏi cửa tử. Tần vương Chính đọc xong thấy rất khâm phục, liền ra lệnh thả Hàn Phi. Nhưng quá muộn, Phi đã bị ép uống thuốc độc chết mất rồi.
tưởng chủ yếu của Hàn Phi thuyết Pháp trị. Không phải ông người đầu tiên nêu lên học thuyết này trước đó Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Hại đã khởi xướng học thuyết này. tưởng của Hàn Phi Tử khác với tưởng của Nho giáo (vốn cho rằng để quản hội thì dùng Nhân trị Đức trị), ông cho rằng cách tốt nhất để quản hội dùng pháp luật: "Pháp luật không hùa theo người sang... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu".
 
Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy Tuân Tử một cách triệt để, bảo không thân bằng tình cha con, vậy nhiều người cha sinh con trai thì nuôi, sinh con gái thì giết đi, coi cái lợi của mình nặng hơn tình ruột thịt như vậy con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử, đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.
 
Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi trên kiểm soát kẻ dưới, nước sẽ trị. Chủ trương "vô vi nhi trị" đó thực trái hẳn chủ trương của Lão Tử, Trang Tử; chính ra một thứ cực hữu vi.
Hàn Phi tổng hợp tưởng của các pháp gia trước ông, các nhà nghị luận thời Chiến Quốc, viết bộ sách Hàn Phi Tử. Trong bộ sách này, ông thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi gian dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa như thiên Phẫn (sự phẫn nộ của con người độc), Ngũ Đố (năm thứ sâu mọt), Nội Ngoại Trữ Thuyết (sưu tập những lời bàn về việc trong việc ngoài), Thuyết Lâm (chuyện người xưa), Thuyết Nan (cái khó trong việc du thuyết),... tất cả hơn mười vạn chữ. Nguyễn Hiến đánh giá bộ Hàn Phi Tử giá trị hơn bộ Quân vương (Le Prince) của Niccolo Machiavelli (1469-1527) cả về tưởng lẫn bút pháp.
 
Hàn Phi biết cái khó trong việc du thuyết nên trong thiên Thuyết Nan bộ Hàn Phi tử, được Thiên tóm tắt, tưởng của ông như sau:
 
Cái khó trong việc du thuyết không phải chỗ biết những điều cần phải đưa ra nói. cũng không phải chỗ mình không biết biện luận. Cũng không phải chỗ không trình bày được ràng ý nghĩ của mình. Cũng không phải chỗ không dám nói ngang nói dọc cho hết cái ý của mình. Phàm cái khó trong việc du thuyết chính chỗ làm thế nào biết được cái tim của con người mình muốn thuyết phục để dùng cái thuyết của mình đối phó.
 
Nếu con người mình muốn du thuyết chỉ nghĩ đến cái danh cho cao, mình lại đem cái lợi lớn ra thuyết với họ, thì họ sẽ cho mình bọn hèn hạ, đối xử như với bọn ti tiện. Thế thế nào họ cũng vất bỏ ta thật xa. Nếu con người mình muốn du thuyết chỉ nghĩ đến cái lợi cho lớn, mình lại đem cái danh cao ra thuyết với họ thì họ sẽ cho ta không chú ý đến thế sự, nói chuyện viễn vông, thế nào họ cũng không dùng. Nếu con người mình muốn du thuyết trong bụng nghĩ đến cái lợi cho lớn nhưng bên ngoài làm ra vẻ muốn cái danh cho cao, ta đem chuyện danh cao ra thuyêt thì bên ngoài họ làm ra vẻ dung nạp cái thân ta, nhưng thực ra thì bỏ rơi ta. Nhưng nếu ta đem chuyện lợi lớn ra nói với họ, thì trong bụng họ dùng lời nói của ta, nhưng bên ngoài họ sẽ vất bỏ cái thân của ta. Đó những điều không biết không được.
 
Phàm việc làm thành do chỗ mật; lời nói thất bại do chỗ bị tiết lộ. Bản thân mình chưa chắc đã tiết lộ ra, nhưng chỉ cần nói đến cái người ta giấu thì đã nguy đến thân rồi. Nhà vua điều sai người du thuyết lại dùng những lời sáng tỏ, dùng cái nghĩa hay để suy luận ra sai lầm của nhà vua thì nguy đến thân.
 
Nếu ta chưa được ân huệ nhà vua tưới đến lại đem hết những điều ta biết ra nói thì hoặc cái thuyết của ta sẽ được dùng đem đến kết quả, nhưng ta chẳng được ơn đức; hoặc cái thuyết không được dùng xảy ra thất bại, thế ta bị nghi ngờ. Như thế thì nguy đến thân.
 
Phàm nhà vua được cái kế của ta, nhưng muốn xem đó công lao của mình, người du thuyết lại muốn cùng biết, thế thì nguy đến thân. Nếu nhà vua ràng muốn làm một việc cho đó công lao của mình kẻ du thuyết lại cùng biết điều đó thì nguy đến thân. Nếu mình cưỡng ép nhà vua bắt làm những điều nhà vua quyết không làm, bác bỏ những điều nhà vua quyết không bỏ, thì nguy đến thân.
 
Cho nên nói: Nếu ta đem những người tôn quý trong triều ra nói với nhà vua, thì nhà vua sẽ cho ta ly gián; nếu ta đem những người thấp hèn ra nói với nhà vua, thì nhà vua sẽ cho ta muốn bán quyền. Ta bàn đến cái nhà vua thích, thì nhà vua sẽ cho ta nịnh hót; ta bàn đến cái vua ghét, thì nhà vua sẽ cho ta thăm nhà vua.
 
Nếu ta nói tóm tắt, ít lời, thì nhà vua sẽ cho ta không kiến thức khinh ta. Nếu ta nói mênh mông, lời lẻ phu phiếm, thì nhà vua sẽ thấy nhiều quá chán. Nếu ta cứ trình bày sự việc theo ý muốn nhà vua, thì nhà vua sẽ bảo ta "nhút nhát không dám nói hết sự lý". Nếu ta suy nghĩ sự việc nói rộng, thì nhà vua sẽ bảo ta "thô lỗ ngạo mạn". Tất cả những điều khó này trong việc du thuyết không thể không biết đến.
 
Phàm việc thuyết phục cốt chỗ biết điểm cho cái nhà vua quý trọng, từ bỏ cái nhà vua ghét. Hễ nhà vua tự cho cái kế mình sai, thì ta chớ nêu chỗ sai lầm bắt bẻ đến cùng.
 
Nếu nhà vua tự cho mình dũng mãnh chỗ quyết đoán một việc gì, thì ta chớ đưa ý của ta ra chống lại để làm cho nhà vua nổi giận. Nếu nhà vua cho sức lực mình đủ để làm một việc gì, thì ta chớ đem chuyện khó khăn ra cản trở. Nếu nhà vua muốn mưu việc cùng với một người khác, hay khen một người nhà vua cùng bàn mưu với họ, thì ta nên điểm cho họ chớ nói hại cho họ. Nếu nhà vua người ấy thất bại, thì hãy cố gắng điểm làm như họ không sai lầm.
 
Kẻ đại trung không dùng lời lẽ làm phất ý nhà vua, lời can gián cũng không cốt đả kích bài bác ai, lời can ngăn hợp lẽ thì thế nào cũng được nghe. Người làm tôi phải biết kiên nhẫn lựa lời. Sau đó mới đem cái tài biện luận cái khôn của mình ra. Như thế cho nên gần gũi với nhà vua, không bị nhà vua ngờ vực.
 
Biết hết cái đạo thờ vua khó. Phải chờ đến khi nào quen biết đã lâu, đã được ân huệ nhiều, bày mưu kế sâu không bị nghi, cãi lại ý nhà vua không bị tội, lúc bấy giờ mới bày điều lợi hại, để lập được công, nói thẳng điều phải điều trái để cho cái thân mình được sung sướng. Khi nào vua tôi đối với nhau được như vậy lúc đó lúc việc du thuyết thành công.
 
Y Doãn làm người nấu bếp. Bách Hề làm người lệ đều do con đường thấp kém gặp nhà vua. Cho nên họ đều thành đạt từ chỗ được nhà vua dùng. Hai người này đều những bậc thánh nhân còn không thể không lấy thân mình làm tôi tớ, để bước vào đường đời một cách nhục nhã như vậy. Như thế đủ biết đó không phải điều làm cho những bầy tôi tài giỏi phải xấu hổ.
 
 

saving score / loading statistics ...